Góc nhìn 17/01/2021 08:45

Quy mô các dự án FDI teo dần

Trước đây, ở Việt Nam bình quân vốn/dự án FDI là từ 8 - 10 triệu USD, nhưng nay chỉ 5-6 triệu USD.... tôi rất đau đáu vì nó ảnh hưởng đến chiến lược, quy hoạch.

GS. TSKH Nguyễn Mại

Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (VAFIE), nguyên Phó Chủ nhiệm Ủy ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư (nay là Bộ Kế hoạch và Đầu tư)

Tính từ ngày 29/12/1987 khi Quốc hội ban hành Luật Đầu tư nước ngoài, đến nay đã gần 35 năm rồi, có 3 kỳ tổng kết rất quan trọng và đều dẫn đến thay đổi định hướng, chính sách. Tổng kết 5 năm gần đây từ giai đoạn 2016 đến 2020, vốn giải ngân FDI tại Việt Nam đạt con số 100 tỷ USD.

Theo tôi, đây là con số rất đáng quan tâm, bởi trong gần 35 năm thu hút FDI vào Việt Nam (từ năm 1987 đến 2020), tổng vốn FDI thực hiện mới chỉ đạt 265 tỷ USD, nhưng giai đoạn 5 năm (2016 đến 2020) chúng ta đã đạt hơn 100 tỷ USD. Số vốn thực hiện 5 năm qua chiếm 40% tổng vốn, nó đánh giá đúng vị thế của Việt Nam.

Tôi không muốn nói những chuyện cũ như tác động môi trường thế nào, trốn thuế ra sao... tôi muốn nói câu chuyện hiện tại và tương lai bởi nó đang nảy sinh 3 yếu tố đáng báo động.

Thứ nhất là Việt Nam đang có quá nhiều dự án nhỏ. Đối với FDI, quy mô rất quan trọng, chất lượng FDI thường gắn với quy mô vốn, quy mô càng lớn, chất lượng càng cao. Tuy nhiên, đáng tiếc, trong nhiều năm quy mô ngày càng giảm.

Trước đây, ở Việt Nam bình quân số vốn/dự án FDI là từ 8 - 10 triệu USD, nhưng nay chỉ 5-6 triệu USD, thậm chí 1-2 triệu/dự án. Nhiều người không quan tâm vấn đề này nhưng riêng tôi rất đau đáu vì nó ảnh hưởng đến chiến lược, quy hoạch và đất đai. Hơn nữa, nó còn liên quan đến cạnh tranh nguồn lực, sân chơi giữa doanh nghiệp ngoại và doanh nghiệp trong nước.

Nếu 10 năm trước, khi doanh nghiệp trong nước chỉ có vài chục và trăm nghìn doanh nghiệp, ưu tiên đầu tư FDI các dự án nhỏ là rất quan trọng. Nhưng bây giờ, chúng ta có 700.000 đến 800.000 doanh nghiệp trong nước rồi, có cả những doanh nghiệp lớn và khá lớn. Vậy, sao phải kêu gọi FDI vào làm dự án cỡ 1-2 triệu USD để làm gì? Hãy để đó cho doanh nghiệp tư nhân trong nước, họ có môi trường, có hệ sinh thái và họ sức làm.

Thứ 2 là, mua bán và sáp nhập (M&A) đang là xu hướng trong đầu tư nước ngoài, đây không phải chuyện của Việt Nam mà là của thế giới. Nhiều người cứ nghĩ rằng M&A khiến doanh nghiệp Việt bị thôn tính mà không hiểu M&A tốt cho tất cả.

Tôi lấy ví dụ, bia Sabeco khi bán cổ phần cho Thái, nhiều người lo bị thôn tính nhưng thực chất chúng ta được nhiều hơn. Trước kia, bia Sài Gòn chỉ loanh quanh tại Việt Nam, nhưng giờ đã ra thế giới, sân bóng của Ngoại hạng Anh bia Sài gòn xuất hiện trên bảng quảng cáo, trên vai áo của các tuyển thủ Câu lạc bộ Leicester city (Câu lạc bộ do chủ Thái quản lý) tại Anh cũng in logo Bia Sài Gòn.

Rõ ràng chúng ta không mất gì cả, chúng ta vẫn thu được thuế, không phải lo gì về quản trị cả, cách chúng ta từng nhìn nhận M&A đã rất thiên lệch.

Điểm thứ 3, qua ba lần tổng kết chúng ta đều đánh giá chất lượng và có định hướng cải thiện. Tuy nhiên, để làm theo định hướng thì chúng ta chưa bao giờ làm được.

Hôm trước tôi có tham dự cuộc họp ở Văn phòng Chính phủ với 5 Bộ ngành, 10 địa phương để bàn về chuyện chuyển dịch từ Trung Quốc sang các nước, Việt Nam phải đón đầu như thế nào.

Tại đây, Phó Chủ tịch TP.HCM than thở là 10 tháng năm 2020 chỉ thu hút được mấy trăm dự án, quy mô mỗi dự án 1-2 triệu USD. Không có dự án lớn, đồng nghĩa chúng ta không có công nghệ tương lai, Big Data, Fintech..

Kết quả thu hút vốn FDI của Việt Nam hiện nay chủ yếu là từ các ông lớn ở châu Á. Điểm lại các ông to nhất đã có mặt ở Việt Nam rồi như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Úc, Singapore, Malaysia, Indonesia, Thái Lan.

Nói kịch trần thì hơi quá nhưng để vốn của các đại gia châu Á vào Việt Nam nhiều hơn nữa thì khó. Đơn cử như với Hàn Quốc, vốn lũy kế hiện đạt 67 tỷ USD, Việt Nam muốn tăng 10-15% vốn FDI từ nước này (khoảng 5-6 tỷ USD) sẽ khó lắm.

Chúng ta có đủ những Hyundai, Honda, Toyota, Mitsubishi rồi LG, giờ chỉ hy vọng có những dự án mới của các nước phát triển như EU, Mỹ - nơi được xem là một trong những cái nôi của công nghệ, của kỹ thuật thế giới.

Với Mỹ và EU, tính từ 1995 khi Việt - Mỹ bình thường hóa quan hệ đến nay vốn thực hiện của Mỹ ở Việt Nam chỉ có 5 tỷ USD, con số quá ít! Đếm trên đầu ngón tay cũng chỉ có vài dự án tầm cỡ như Intel, dù bao nhiêu đời Đại sứ Mỹ đều nói cố gắng đưa Mỹ dẫn đầu vào đầu tư ở Việt Nam nhưng không thành công. Hay cả một khối EU hơn 27 nước như vậy, vốn đầu tư thực hiện chỉ vào 10 tỷ USD, quá thấp!

Tôi cho rằng có ba lý do và cũng là ba hạn chế để vốn và công nghệ cao vào Việt Nam ít.

Thứ nhất là Việt Nam bị các nhà đầu tư lo ngại về sở hữu trí tuệ, lý do rất quan trọng đối với các nước phát triển, những nhà tư bản, tài phiệt lớn để cân đo, đong đếm khi đầu tư vào một nước.

Có người nói vấn đề này và lấy Trung Quốc ra làm phép so sánh, nhưng Trung Quốc là thị trường quá lớn, có chê về sở hữu trí tuệ như các nhà tư bản vẫn lao vào thặng dư không thể chối từ.

Chừng nào chúng ta còn sử dụng hàng lậu, phần mềm không bản quyền ngay cả ở các cơ quan Nhà nước thì khó có thể thu hút được các nhà đầu tư sẵn sàng bỏ tiền vào đây.

Hiện nay, các nhà tư bản phương Tây muốn vốn FDI khỏi Trung Quốc về Nhật, về Mỹ thì nhiều lắm cũng chỉ 15% tổng số 2.000 tỷ USD đã thực hiện ở Trung Quốc mà thôi, trong đó về Mỹ, Nhật nhiều cũng đến 10%, về nước khác là 3-5%, 85% vốn FDI còn lại vẫn sẽ ở Trung Quốc.

Tôi phải nhấn mạnh lại là Việt Nam chỉ nên bàn đến 3-5% vốn rời Trung Quốc kia thôi, cái đó cũng đáng bàn lắm rồi, nó cũng tương đương khoảng 60 đến 100 tỷ USD rồi. Chừng ấy là cũng đủ để cho nền kinh tế như Việt Nam hấp thụ được rồi. Đừng ảo vọng bàn con số quá lớn hay "đại bàng", không có đâu.

Chuyên mục: Góc nhìn

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *