Góc nhìn 10/01/2019 14:57

Cơ hội để Việt Nam chuyển mình

Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung đặt ra cho Việt Nam cơ hội hiếm hoi để rời bỏ Trung Quốc trong chuỗi cung ứng sản xuất, đặc biệt là sự dịch chuyển của các nhà đầu tư và thương mại. Song, khi chuỗi cung ứng sản xuất dịch chuyển từ Trung Quốc tới các nước láng giềng, Việt Nam cần cải thiện môi trường thể chế, kinh doanh và chất lượng lao động để đón đầu cơ hội này.

TS. Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện nghiên cứu kinh tế và Chính sách (VEPR)

Động lực tăng trưởng kinh tế trong năm 2019 sẽ dựa trên nền tảng đã có từ các năm trước là chu kỳ kinh tế vẫn đang tiếp tục hồi phục cũng như những nỗ lực từ khu vực doanh nghiệp và sự cải cách của Chính phủ sẽ tạo động lực cho nền kinh tế.

Cùng với đó, chiến tranh thương mại Mỹ-Trung đang đặt Việt Nam trước một cơ hội lớn hiếm hoi trước xu hướng rời bỏ Trung Quốc của chuỗi cung ứng sản xuất, đặc biệt là sự dịch chuyển của các nhà đầu tư và thương mại.

Theo số liệu khảo sát của Phòng Thương mại Hoa Kỳ tại Nam Trung Quốc, 60% số doanh nghiệp được khảo sát sẽ trì hoãn hoặc hủy các kế hoạch đầu từ vào Trung Quốc. Ngoài ra, 70% số doanh nghiệp Mỹ sẽ rời khỏi Trung Quốc.

Đây sẽ là cơ hội thu hút đầu tư của Việt Nam. Ngoài ra, cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung đang đặt Việt Nam trước một cơ hội lớn hiếm hoi trước xu hướng rời bỏ Trung Quốc của chuỗi cung ứng sản xuất.

Mặc dù Ấn Độ có khả năng cao sẽ trở thành điểm đến của đợt chuyển dịch chuỗi sản xuất do có thị trường tương đương đáp ứng giống Trung Quốc. Song khu vực Đông Nam Á, trong đó Việt Nam vẫn là một điểm đến sáng giá nhất do tính tương đồng về văn hóa, môi trường thể chế. Giá nhân công rẻ, khéo tay cùng là những lợi thế khác của Việt Nam.

Tuy nhiên, thách thức đặt ra là không nhỏ cho Việt Nam khi cơ sở hạ tầng chưa sẵn sàng đón nhận làn sóng chuyển dịch chuỗi sản xuất toàn cầu, cùng với đó là bất lợi về lợi thế quy mô so với Trung Quốc và Ấn Độ. Để nắm bắt được cơ hội này, đòi hỏi Việt Nam phải cố gắng rất nhiều ở việc cải thiện môi trường thể chế, kinh doanh và chất lượng lao động trong nước.

Ngoài ra, về chính sách tiền tệ, việc sử dụng dự trữ ngoại hối để ổn định giá trị VND như NHNN thực hiện trong thời gian qua không phải là giải pháp can thiệp lâu dài khi dự trữ ngoại hối của Việt Nam trên thực tế còn nhỏ về quy mô.

Việc sử dụng dự trữ ngoại hối để ổn định giá trị đồng VND như Ngân hàng Nhà nước thực hiện trong thời gian qua không phải là giải pháp can thiệp lâu dài khi dự trữ ngoại hối của Việt Nam trên thực tế còn nhỏ về quy mô.

Áp lực tỷ giá và lạm phát cùng với quy định hạn chế sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung, dài hạn đã khiến lãi suất VND có xu hướng tăng đáng kể vào thời điểm cuối năm. Tuy nhiên, giải pháp nâng lãi suất sẽ dẫn tới những hệ lụy cho doanh nghiệp khi đẩy chi phí vốn tăng do quy mô thị trường trái phiếu doanh nghiệp còn khiêm tốn nên chưa giảm được nhiều gánh nặng cho tín dụng ngân hàng.

Vì vậy, việc chủ động giảm giá VND một cách khéo léo giữa mức mất giá của nhân dân tệ (CNY) so với USD là cần thiết để Việt Nam thích ứng trong cuộc chiến tranh thương mại.

Nếu có chính sách tỷ giá phù hợp, thương mại Việt Nam hoàn toàn có thể hưởng lợi nhiều hơn từ cuộc chiến này, bên cạnh việc tiếp nhận nhiều đơn hàng chuyển dịch từ Trung Quốc.

Còn về tác động lâu dài, khi chuỗi cung ứng sản xuất dịch chuyển từ Trung Quốc tới các nước láng giềng, Việt Nam cần cải thiện môi trường thể chế, kinh doanh và chất lượng lao động để đón đầu cơ hội này.

Chuyên mục: Góc nhìn

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *