Thời sự 09/05/2014 11:18

Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú: Hệ thống ngân hàng đã qua thời kỳ khó khăn nhất

Giảm số lượng các TCTD không phải là mục tiêu của Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 - 2015. Mục tiêu cuối cùng của công tác tái cơ cấu là xử lý những tồn tại, yếu kém và tăng cường sự an toàn, lành mạnh và hiệu quả của hệ thống các TCTD, nâng cao năng lực tài chính, quản trị và quy mô của các NHTM.

Đó là chia sẻ của Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú.

NHNN không chịu sức ép nới lỏng tiền tệ

 

Phải chăng NHNN đang chịu sức ép phải nới lỏng tiền tệ rất lớn năm nay, khi thông điệp về thúc đẩy cho vay và hành động hạ lãi suất được đưa ra rất sớm từ đầu năm?

 

Có thể khẳng định so với trước đây, chính sách tiền tệ (CSTT) đã được nới hơn rất nhiều, thể hiện qua hạn mức tăng trưởng tín dụng cao hơn, mặt bằng lãi suất thấp hơn, tiếp tục cơ cấu lại các khoản nợ... Tuy nhiên, để việc điều hành CSTT theo hướng nới lỏng hay thắt chặt và nếu nới thì nới ở mức độ nào cũng phải tùy thuộc vào thực trạng của nền kinh tế, theo sát diễn biến kinh tế và luôn phải quán xuyến các mục tiêu tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát của năm 2014.

 

Năm 2014, Quốc hội, Chính phủ đã xác định rõ tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát; tăng trưởng hợp lý và nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế... Với yêu cầu mục tiêu đó, năm 2014 NHNN sẽ tiếp tục điều hành CSTT một cách chủ động, linh hoạt, đồng thời phối hợp chặt chẽ với chính sách tài khóa để thực hiện mục tiêu này.

 

Theo đó, ngay từ những tháng đầu năm 2014, NHNN đã điều hành đồng bộ các công cụ CSTT để điều tiết tiền tệ hợp lý thực hiện mục tiêu kiểm soát lạm phát, hỗ trợ thanh khoản cho các TCTD và ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối. Đồng thời, NHNN tiếp tục thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho các TCTD mở rộng tín dụng đi đôi với đảm bảo chất lượng tín dụng và an toàn hoạt động ngân hàng...

 

Nhìn chung, việc thực hiện các giải pháp hỗ trợ nền kinh tế được hệ thống ngân hàng triển khai tích cực nhưng vẫn đảm bảo mục tiêu ưu tiên kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và an toàn hệ thống ngân hàng. Đến nay, lạm phát tiếp tục được kiểm soát ở mức thấp, đến tháng 3/2014 chỉ tăng 0,8% so với đầu năm, tăng 4,39% so với cùng kỳ năm 2013 và là mức tăng thấp nhất của quý I trong hơn 10 năm gần đây, thị trường tiền tệ ổn định, thanh khoản của các TCTD cải thiện, mặt bằng lãi suất huy động và cho vay tiếp tục giảm so với cuối năm 2013.

 

Riêng trong quý I/2014, NHNN tiếp tục mua vào gần 8 tỷ USD để tăng thêm dự trữ ngoại hối.

 

Đúng là hiện kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, lạm phát được kiểm soát ở mức thấp, song tăng trưởng vẫn phục hồi rất chậm?

 

Trong thời gian tới, nền kinh tế có chiều hướng ổn định nhưng chưa thực sự vững chắc vì chịu tác động nhiều bởi các yếu tố khách quan và chủ quan, sự biến động giá cả thế giới, các rủi ro thiên tai… Do đó, kinh tế vĩ mô nói chung vẫn cần phải theo dõi sát diễn biến lạm phát, cho dù lạm phát tính đến tháng 3/2014 chỉ tăng ở mức rất thấp. Cùng với đó, lạm phát kỳ vọng tiếp tục ổn định và người dân tin tưởng hơn vào quyết tâm đạt được mục tiêu kiểm soát lạm phát của NHNN, của Chính phủ. Ngoài ra, nếu giá hàng hóa cơ bản và lạm phát trên thị trường thế giới dự kiến xu hướng ở mức thấp như hiện nay thì nhiều khả năng lạm phát cả năm 2014 chúng ta sẽ được kiểm soát ở mức khoảng 6%.

 

Bởi vậy, trong điều hành, điểm xuyên suốt là NHNN tiếp tục thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho DN để hỗ trợ nền kinh tế nhưng không chủ quan với lạm phát, đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô một cách vững chắc cũng như an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng.

 

Hoạt động cơ cấu lại các TCTD hiện mang tính chủ động và tự nguyện.

 

Tuy nhiên, việc điều hành CSTT nên theo lạm phát mục tiêu, chứ như hiện nay, nhiều ý kiến cho rằng việc điều hành CSTT vẫn đang “chạy theo lạm phát”?

 

Có thể nói nhiệm vụ kiểm soát lạm phát là ưu tiêu hàng đầu của NHNN trong việc điều hành CSTT. Tuy nhiên để kiểm soát lạm phát, một mình CSTT là rất khó mà phải có sự phối hợp đồng bộ của nhiều chính sách khác, đặc biệt là chính sách tài khóa, đầu tư công, công tác điều hành giá cả thị trường… mà rộng hơn nữa là điều hành hài hòa sự cân bằng tổng cung và tổng cầu của nền kinh tế.

 

Riêng với CSTT, có thể khẳng định NHNN đã và đang liên tục đổi mới công tác điều hành. Theo đó, bên cạnh việc thực hiện đồng bộ, linh hoạt các nghiệp vụ truyền thống nhằm điều tiết cung tiền, lãi suất, tỷ giá, NHNN đã nâng cao tính chủ động, dẫn dắt thị trường, tăng cường tính công khai, minh bạch để định hướng kỳ vọng thị trường, củng cố lòng tin của người dân và của TCTD vào điều hành của NHNN… Do đó, việc điều hành CSTT theo lạm phát mục tiêu cũng là xu hướng đã và đang tiến tới.

 

Cho đến nay, có thể thấy điều hành CSTT của NHNN đã đạt những kết quả tích cực như lạm phát được kiềm chế, kinh tế vĩ mô ổn định, lòng tin vào VND tăng cao, các tổ chức kinh tế và tổ chức xếp hạng tín nhiệm cũng đánh giá cao kết quả điều hành CSTT của NHNN thời gian vừa qua. Đây là những điều kiện thuận lợi, là động lực để NHNN thời gian tới kiên trì mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô.

 

Một vấn đề đặt ra khi kinh tế phục hồi, với đặc thù kinh tế Việt Nam, nhập siêu sẽ càng lớn và sức ép lên tỷ giá cũng lớn. Vậy Phó Thống đốc có thể cho biết mục tiêu điều hành tỷ giá từ giờ tới cuối năm 2014?

 

Trong thời gian qua, với các giải pháp điều hành tỷ giá linh hoạt kết hợp chặt chẽ với các công cụ CSTT khác, đặc biệt là chính sách lãi suất, tỷ giá giữa đồng Việt Nam và đôla Mỹ tương đối ổn định, góp phần quan trọng để đạt mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, hạn chế tình trạng đôla hóa, cải thiện môi trường đầu tư và tăng dự trữ ngoại hối Nhà nước. Tính đến nay, dự trữ ngoại hối đạt kỷ lục trên 35 tỷ USD.

 

Dự trữ ngoại hối dồi dào một mặt đã tăng vị thế kinh tế đối ngoại của Việt Nam trên trường quốc tế; mặt khác cũng tạo điều kiện để NHNN điều hành tỷ giá và thị trường ngoại tệ một cách chủ động và hiệu quả hơn. Do đó, mặc dù khả năng nhập siêu sẽ tăng khi kinh tế phục hồi, nhưng nhìn tổng thể các yếu tố tác động tới tỷ giá tạo áp lực giảm giá đồng Việt Nam theo tôi là không lớn.

 

Căn cứ vào diễn biến hiện nay, cũng như dự báo cung - cầu ngoại tệ thời gian tới, tôi có thể khẳng định, những tháng còn lại của năm 2014 tỷ giá sẽ tiếp tục ổn định, nếu có biến động cũng không quá 1% và NHNN cũng đã xác định chỉ tiêu này để điều hành tỷ giá.

 

Để đảm bảo đạt được mục tiêu này, bên cạnh biện pháp sẵn sàng mua, bán ngoại tệ can thiệp thị trường khi cần thiết, NHNN sẽ bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ, để từ đó có sự kết hợp chặt chẽ giữa chính sách lãi suất tiền đồng và lãi suất ngoại tệ hợp lý, đảm bảo nâng cao vị thế của đồng Việt Nam.

 

Theo đó, NHNN sẽ tiếp tục điều hành các kênh cung ứng tiền cũng như điều tiết lượng vốn khả dụng của hệ thống linh hoạt và hợp lý, đảm bảo không gây áp lực lên lạm phát cũng như áp lực lên tỷ giá. Bên cạnh đó, NHNN cũng tăng cường quản lý thị trường vàng để ngăn ngừa tác động bất lợi đối với thị trường ngoại tệ, phối hợp với các Bộ, ngành và địa phương thanh tra, kiểm tra thị trường ngoại tệ, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm nhằm hạn chế tình trạng đô la hóa, chuyển dần quan hệ vay mượn sang quan hệ mua bán ngoại tệ.

 

Tái cấu trúc hệ thống ngân hàng: chủ động và tự nguyện

 

Một vấn đề khác, đó là “cục máu đông” nợ xấu. Phó Thống đốc có hài lòng với kết quả xử lý đã đạt được hay không và bước đi tiếp theo sẽ là như thế nào?

 

Nói là hài lòng hay chưa là rất khó bởi nợ xấu vẫn còn khá cao, tuy nhiên có thể khẳng định rằng kết quả xử lý nợ xấu thời gian qua là khá tích cực. Song thành công nhất, theo tôi, đó nhận thức về vấn đề nợ xấu đã thay đổi căn bản, từ trong các cơ quan quản lý cho tới từng TCTD. Đó chính là yếu tố then chốt khiến tiến trình xử lý nợ xấu diễn ra khá thông suốt; và quan trọng hơn là ngăn ngừa nợ xấu phát sinh trong tương lai.

 

Theo đó, toàn hệ thống đã xử lý được 97,7 nghìn tỷ đồng nợ xấu trong năm 2013, bao gồm các giải pháp, các NHTM chủ động đôn đốc thu hồi nợ từ khách hàng vay, xử lý tài sản bảo đảm, sử dụng dự phòng để xử lý, bán nợ cho VAMC; các DN chủ động bán hàng giảm tồn kho để trả nợ ngân hàng.

 

Mặc dù đạt được kết quả bước đầu về xử lý nợ xấu, song xét trong bối cảnh hiện nay, áp lực gia tăng nợ xấu là rất lớn và việc xử lý nợ nhanh gặp nhiều khó khăn do: thứ nhất, sản xuất kinh doanh chậm phục hồi; thứ hai, khuôn khổ pháp lý về xử lý tài sản bảo đảm còn nhiều bất cập; thứ ba, thị trường bất động sản vẫn còn trì trệ; thứ tư, thị trường mua bán nợ chưa phổ biến; thứ năm, các giải pháp hỗ trợ xử lý nợ xấu chưa được triển khai đồng bộ và phát huy tác dụng.

 

Vậy để đảm bảo việc xử lý nợ xấu đạt được các mục tiêu, tiến độ đề ra, cần tập trung thực hiện những điểm gì?

 

Triển khai đồng bộ, có hiệu quả các giải pháp xử lý nợ xấu theo Quyết định số 843, ngoài ngành ngân hàng còn đòi hỏi sự tham gia chủ động, tích cực từ các Bộ, ngành, địa phương. Đồng thời, đẩy nhanh hoàn thiện và ban hành các quy định về xử lý tài sản bảo đảm. Để xử lý được thực chất các khoản nợ xấu của khách hàng vay không còn khả năng phục hồi, VAMC và các TCTD phải chủ động hơn trong việc bán, xử lý tài sản bảo đảm. Vấn đề quan trọng bấy lâu nay vẫn đặt ra nhưng chưa được giải quyết kịp thời, đầy đủ đó là cơ chế xử lý tài sản bảo đảm tiền vay còn nhiều bất cập, khó khăn, vướng mắc trong các quy định pháp lý là cản trở lớn trong quá trình xử lý nợ xấu của các TCTD, nên việc sớm ban hành các quy định, hướng dẫn rõ ràng đầy đủ đồng bộ về xử lý tài sản bảo đảm là vấn đề cấp thiết.

 

Bên cạnh đó, ổn định kinh tế vĩ mô, môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi cho DN và phát triển thị trường bất động sản. NHNN đề nghị các Bộ, ngành, địa phương tập trung triển khai quyết liệt các giải pháp, nhiệm vụ được giao tại Nghị quyết số 01/NQ - CP của Chính phủ ngày 2/1/2014 về những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu chỉ đạo điều hành thực hiện Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và dự toán ngân sách nhà nước năm 2014.

 

Liên quan đến VAMC, nhiều định chế tài chính nước ngoài nhận định, đây là một công cụ xử lý nợ xấu rất đặc biệt trong hoàn cảnh hiện tại của Việt Nam, tuy nhiên, năng lực và vai trò của VAMC cần được nâng lên nữa. Quan điểm của Phó Thống đốc như thế nào?

 

Họ nhận định như vậy là đúng. Cần đẩy mạnh hoạt động của VAMC để VAMC thực sự là một công cụ xử lý được những khó khăn đã tích tụ trong hoàn cảnh rất đặc biệt hiện tại. Do vậy, VAMC cần được tạo điều kiện hơn nữa về nguồn lực tài chính, cơ chế mới riêng biệt, điều kiện và môi trường hoạt động...

 

Trước mắt, một số giải pháp cần được thực hiện như sau: tạo điều kiện thuận lợi cho VAMC mua được 70 - 100 nghìn tỷ đồng nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt; đẩy mạnh việc bán nợ, xử lý nợ và tài sản bảo đảm của VAMC. Tăng cường năng lực tài chính cho VAMC để mua bán nợ theo cơ chế thị trường, đầu tư vào dự án bất động sản dở dang, hỗ trợ tài chính cho khách hàng vay vượt qua khó khăn thông qua tăng vốn điều lệ của VAMC thêm 1.000 - 2.000 tỷ đồng; Huy động vốn từ các nguồn trong và ngoài nước, đặc biệt là vốn ODA cho VAMC.

 

VAMC phối hợp với TCTD tiếp tục cơ cấu lại nợ cho khách hàng vay và hỗ trợ tài chính cho khách hàng vay. Có cơ chế, chính sách hợp lý đối với TCTD trong việc phân bổ lỗ do bán nợ xấu và miễn thuế đối với thu nhập tăng lên do phân bổ lỗ trong năm tài chính.

 

Trên thị trường hiện nay đang rộ lên thông tin về hoạt động mua bán, sáp nhập của các ngân hàng. Phó Thống đốc bình luận gì về việc này?

 

Cả về mặt lý luận và thực tiễn, sáp nhập, hợp nhất là một giải pháp rất hữu hiệu để xử lý các TCTD yếu kém, là giải pháp kinh tế nhất đối với xã hội nhằm giảm thiểu sử dụng vốn ngân sách nhà nước, tận dụng tối đa nguồn lực của khu vực tư nhân trong quá trình cơ cấu lại, đảm bảo đầy đủ quyền lợi của người gửi tiền, duy trì an toàn, ổn định hệ thống.

 

Sáp nhập, hợp nhất cũng là biện pháp đem lại nhiều lợi ích đối với các TCTD hoạt động bình thường, thông qua đó các TCTD nâng quy mô hoạt động, tăng lợi thế trong kinh doanh… Vì vậy, trong xu thế hội nhập quốc tế, cùng với những quyết tâm của Đảng và Chính phủ thực hiện công cuộc cơ cấu lại nền kinh tế, nhiều TCTD đã chủ động sáp nhập, hợp nhất với nhau để tạo vị thế mới trên thị trường.

 

Tuy nhiên, cơ cấu lại các TCTD là trách nhiệm không chỉ của riêng các TCTD, mà còn là của cơ quan quản lý. Do đó, ngoài ý thức chủ động tự nguyện của các TCTD, còn có sự chỉ đạo sát sao của NHNN để đạt được những lợi ích riêng cho từng TCTD và lợi ích chung cho hệ thống các TCTD và cao hơn nữa là lợi ích của xã hội và của người gửi tiền.

 

Hệ thống TCTD Việt Nam đã được cơ cấu lại một bước quan trọng và vượt qua thời kỳ khó khăn nhất, nguy cơ đổ vỡ hệ thống đã được loại bỏ, hầu hết các TCTD, kể cả các ngân hàng yếu kém đã được phê duyệt Phương án cơ cấu lại theo đúng thực trạng tình hình và mục tiêu của Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 - 2015. Các tồn tại, sai phạm và yếu kém trên các mặt hoạt động, tài chính, quản trị điều hành, kiểm soát nội bộ đã được khắc phục, chấn chỉnh từng bước; các chỉ số an toàn hoạt động cơ bản đáp ứng yêu cầu, quy định của pháp luật; bước đầu hình thành một số ngân hàng có quy mô lớn, quản trị tiên tiến và có khả năng cạnh tranh trong khu vực.

 

Có chuyện ngân hàng bị “cưỡng bức” sáp nhập?

 

Nhìn chung đến nay, các phương án hợp nhất, sáp nhập đều dựa trên hình thức tự nguyện giữa các TCTD theo đúng quy định của pháp luật và chủ yếu dựa vào nguồn lực của khu vực tư nhân; quá trình tái cơ cấu, hợp nhất, sáp nhập, giải thể không để xảy ra sự cố bất thường, ngoài tầm kiểm soát, không làm ảnh hưởng quyền lợi của người gửi tiền, không làm gián đoạn cung cấp tín dụng và dịch vụ ngân hàng cho nền kinh tế.

 

Nếu như năm 2012 việc cơ cấu lại chủ yếu tập trung đối với một số ngân hàng yếu kém có nguy cơ đổ vỡ, thì sang năm 2013 và hiện nay việc cơ cấu lại các TCTD đã mang tính chủ động và tự nguyện từ các TCTD. Điều này cũng chứng tỏ rằng các chủ trương, chính sách, biện pháp cơ cấu lại ngân hàng đã được tuyên truyền, phổ biến tốt và nhận thức về cơ cấu lại ngân hàng, tư duy quản trị của các chủ sở hữu TCTD đã có sự thay đổi căn bản theo hướng thừa nhận sự tất yếu khách quan phải cơ cấu lại để vượt qua những hạn chế, yếu kém và tăng cường năng lực cạnh tranh. Những kết quả đạt được ban đầu về cơ cấu lại các TCTD cho thấy sáp nhập, hợp nhất là giải pháp hữu hiệu và dần trở thành xu thế mới hiện nay, góp phần quan trọng trong việc ổn định hệ thống tài chính, kinh tế vĩ mô, hỗ trợ điều hành chính sách tiền tệ và tạo cơ sở cho việc đẩy nhanh cơ cấu lại các TCTD ở cấp độ cao hơn trong giai đoạn tiếp theo.

 

Tuy nhiên, không phải là cứ “cộng” các ngân hàng vào là tái cơ cấu xong, thưa Phó Thống đốc?

 

Đúng vậy, giảm số lượng các TCTD không phải là mục tiêu của Đề án cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 - 2015. Mục tiêu cuối cùng của công tác tái cơ cấu là xử lý những tồn tại, yếu kém và tăng cường sự an toàn, lành mạnh và hiệu quả của hệ thống các TCTD, nâng cao năng lực tài chính, quản trị và quy mô của các NHTM nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nền kinh tế về vốn và dịch vụ ngân hàng, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.

 

Bởi vậy, trong thời gian tới, NHNN tiếp tục triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp cơ cấu lại hệ thống các TCTD với trọng tâm sau đây: thúc đẩy và tạo điều kiện cho việc sáp nhập, hợp nhất. Bên cạnh các biện pháp tự nguyện tái cơ cấu của TCTD, NHNN sẽ kiên quyết áp dụng các biện pháp can thiệp mạnh, bắt buộc theo quy định của pháp luật để xử lý đối với những TCTD nếu không tích cực, tự nguyện hoặc không thể cơ cấu lại; xử lý tích cực nợ xấu của các TCTD, nâng cao hiệu quả hoạt động của VAMC trong việc mua, xử lý nợ xấu, tái cơ cấu các khoản nợ.

 

Ngoài ra, NHNN sẽ chỉ đạo, giám sát, kiểm tra các TCTD thực hiện các phương án tái cơ cấu đã được phê duyệt; sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện khuôn khổ pháp lý hoạt động ngân hàng để thúc đẩy tái cơ cấu và hoàn thành các chuẩn mực an toàn cao hơn cho các TCTD; Tích cực cơ cấu lại hoạt động của các TCTD theo hướng tập trung vào hỗ trợ cho các ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế, đặc biệt nông nghiệp nông thôn, DN nhỏ và vừa, công nghiệp phụ trợ, xây dựng công nghệ cao; từng bước xử lý vấn đề sở hữu chéo đi đôi với việc bảo đảm sự ổn định của hệ thống ngân hàng...

 

Theo Hồng Dung
ĐTCK

Chuyên mục: Thời sự

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *