Đầu tư 09/02/2015 14:55

1 hecta Khu công nghiệp nộp ngân sách bình quân 1,5 tỷ đồng

FICA - Trong thời kỳ 2001-2005 các doanh nghiệp KCN nộp ngân sách đạt khoảng 2 tỷ USD, trong thời kỳ 2006-2010 là 5,9 tỷ USD và trong 3 năm 2011-2013 là 5,2 tỷ USD.

Theo ông Vũ Quốc Huy – Phó Vụ trưởng Vụ Quản lý các Khu kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, tính đến thời điểm hiện tại, trên phạm vi cả nước hiện có 461 khu công nghiệp (KCN) trong quy hoạch tổng thể phát triển các KCN ở Việt Nam đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt với tổng diện tích đất tự nhiên khoảng 142,1 nghìn ha.

Trong đó khoảng 82,8 nghìn ha của các KCN đã được thành lập/cấp Giấy chứng nhận đầu tư và 59,4 nghìn ha của các KCN chưa được thành lập.

Các KCN được thành lập trên 60 tỉnh, thành phố, chủ yếu tập trung tại các vùng kinh tế trọng điểm nhằm phát huy lợi thế về vị trí địa lý và tiềm năng phát triển kinh tế của từng vùng. Ngoài ra, để tạo điều kiện phát triển công nghiệp địa phương một số KCN được thành lập tại các vùng có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn như khu vực trung du miền núi phía Bắc và Tây Nguyên…

Đông Nam Bộ là vùng có số lượng KCN được thành lập nhiều nhất với 100 KCN chiếm 33,9% số KCN của cả nước; tiếp đó là Đồng bằng sông Hồng với 76 KCN và Tây Nam Bộ với 51 KCN. Điển hình về xây dựng và phát triển các KCN là các tỉnh, thành phố Đồng Nai, Bình Dương, Bà Rịa - Vũng Tàu, Thành phố Hồ Chí Minh, Long An và Bắc Ninh

Tổng hợp kết quả rà soát các KCN có trong quy hoạch phát triển KCN đã được phê duyệt trên phạm vi cả nước đến năm 2020, cho thấy có 58 KCN có trong quy hoạch nhưng mới thành lập một phần diện tích; 9 KCN đã thu hồi giấy chứng nhận đầu tư để xem xét chuyển nhượng cho chủ đầu tư khác có năng lực hơn và 157 KCN có trong quy hoạch nhưng toàn bộ diện tích chưa thành lập, và sẽ tiếp tục được thành lập trong giai đoạn đến 2020 khi đáp ứng đủ điều kiện.

Vùng Đồng bằng sông Hồng có số KCN và diện tích còn lại chưa thành lập lớn nhất (chiếm 36,6% về số lượng và 36,1% về diện tích của cả nước), tiếp đến là vùng Đông Nam Bộ (chiếm 14,7% về số lượng và 20,5% về diện tích của cả nước) và vùng Tây Nam Bộ (chiếm 20,5% về số lượng và 18,6% về diện tích của cả nước).

Cả nước hiện có 208 khu công nghiệp đang hoạt động

Ông Huy cũng cho biết, tổng vốn đăng ký kết cấu hạ tầng của 295 KCN tương đương 12,8 tỷ USD, trong đó KCN do doanh nghiệp FDI làm chủ đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký 3,58 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 55,4% vốn đăng ký và các KCN do doanh nghiệp trong nước làm chủ đầu tư có vốn đầu tư đăng ký là 9,22 tỷ USD, vốn thực hiện đạt 41,5% vốn đăng ký.

Trong 295 KCN đã được thành lập có 208 KCN đang hoạt động và 87 KCN đang đền bù, giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ sở hạ tầng. Đến hết tháng 9/2014, các KCN đã thu hút được 5.325 dự án FDI với tổng vốn đầu tư đăng ký 79,4 tỷ USD và 5.262 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đầu tư đăng ký đạt 25,6 tỷ USD. Các dự án đầu tư trong KCN đã tạo việc làm cho trên 2,25 triệu lao động trực tiếp. Tỷ lệ lấp đầy các KCN đi vào hoạt động đạt 65%. Các tỉnh, thành phố có nhiều KCN đi vào hoạt động và đạt tỷ lệ lấp đầy cao là Đồng Nai, Bình Dương và Thành phố Hồ Chí Minh

Tỷ suất vốn đầu tư bình quân của các dự án đầu tư trong nước và nước ngoài/ha đất công nghiệp đã cho thuê đạt 4,14 triệu USD/ha. Tổng số lao động bình quân/ha đất công nghiệp đã cho thuê đạt 89 người/ha.

“Sức hút nam châm” với dòng vốn ngoại

Hàng năm, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào KCN, KCX chiếm từ 40-45% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đăng ký tăng thêm của cả nước. Tính riêng trong ngành công nghiệp, các KCN, KCX thu hút khoảng 80% tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Theo ông Huy, có thể khẳng định, các KCN là một công cụ hữu hiệu để thu hút các dự án đầu tư, đặc biệt là các dự án FDI, góp phần thực hiện mục tiêu chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa trong phạm vi địa phương và trên cả nước. Nhiều dự án đầu tư có quy mô lớn, công nghệ tiên tiến, hiện đại như:  Samsung, Nokia, Canon,  Panasonic... đã đầu tư trong KCN, góp phần hình thành một số ngành công nghiệp hỗ trợ trong lĩnh vực điện tử, viễn thông.

Vai trò và đóng góp ngày càng tích cực của các doanh nghiệp KCN trong quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Cụ thể, tỷ trọng giá trị sản xuất công nghiệp của các doanh nghiệp KCN trong tổng giá trị sản xuất công nghiệp của cả nước đã tăng liên tục từ mức khoảng 14% năm 2000 lên 28% năm 2005, 32% năm 2010 và 39% năm 2013.

Tỷ trọng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đã tăng lên đáng kể từ mức khoảng 15% năm 2000 lên khoảng 20% năm 2005, 25% năm 2010 và 34% năm 2013.

Bên cạnh đó, các doanh nghiệp KCN bước đầu có đóng góp tích cực vào ngân sách nhà nước.Trong thời kỳ 2001-2005 các doanh nghiệp KCN nộp ngân sách đạt khoảng 2 tỷ USD, trong thời kỳ 2006-2010 là 5,9 tỷ USD và trong 3 năm 2011-2013 là 5,2 tỷ USD. Và nếu tính bình quân 1 ha đất công nghiệp có thể cho thuê trong năm 2013, các KCN đã tạo ra giá trị sản xuất công nghiệp 3,8 triệu USD/ha, giá trị xuất khẩu 2,12 triệu USD/ha, nộp ngân sách khoảng 1,5 tỷ đồng/ha. Trung bình 1 ha đất công nghiệp đã cho thuê đã tạo việc làm cho 86 lao động trực tiếp.

Bích Diệp

Chuyên mục: Đầu tư

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *