Dòng chảy vốn 03/12/2014 16:39

Công nghiệp hỗ trợ: Việt Nam vẫn thuộc hàng ngũ "sơ khai"

FICA - Hiện tại, công nghiệp Việt Nam vẫn đang ở 'thế hệ công nghiệp thứ hai', vì vậy việc thực hiện tỷ lệ nội địa hóa cao là khó có thể đạt được. Nhìn chung ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam vẫn đang ở trong giai đoạn sơ khai và manh mún.

Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) vừa có báo cáo về thực trạng của ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam và vai trò của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI).

Việt Nam thuộc "Thế hệ công nghiệp thứ hai"

Theo đánh giá của Cục Đầu tư nước ngoài, công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam đã bắt đầu hình thành và từng bước phát triển phục vụ cho nhu cầu sản xuất, lắp ráp các sản phẩm tiệu thụ nội địa. Chất lượng chi tiết, linh phụ kiện chế tạo nâng cao dần. Xu hướng chuyên môn hóa đã hình thành. Một số doanh nghiệp nội địa đã tham gia và đứng vững trong dây chuyền sản xuất mang tính toàn cầu của các tập đoàn nước ngoài.

Tuy vậy, hiện tại, công nghiệp Việt Nam vẫn đang ở 'thế hệ công nghiệp thứ hai', vì vậy việc thực hiện tỷ lệ nội địa hóa cao là khó có thể đạt được. Nhìn chung ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam vẫn đang ở trong giai đoạn sơ khai và manh mún.


Số lượng các doanh nghiệp hỗ trợ nội địa mới chỉ dừng lại ở khâu sản xuất các chi tiết, linh kiện đơn giản và cơ cấu giá trị nội địa hóa rất nhỏ.

Thứ nhất, các doanh nghiệp Việt Nam hiện chỉ có thể tập trung đầu tư và phát triển sản xuất các loại phụ tùng linh kiện có kích cỡ cồng kềnh với công nghệ sản xuất không phức tạp và chỉ với mục tiêu đáp ứng nhu cầu, yêu cầu của các doanh nghiệp FDI.

Thứ hai, năng lực của các nhà cung ứng chưa mạnh. Các doanh nghiệp nội địa có trình độ công nghệ thấp hơn nhiều so với các nước, năng lực tổ chức sản xuất và quản lý chưa đáp ứng được đòi hỏi của các nhà đầu tư FDI. Một trong những điểm yếu nhất là khả năng nghiên cứu, phát triển (R&D).

Thứ ba, yêu cầu đặt ra cũng như chính sách thu mua từ phía các công ty FDI rất khắt khe về chất lượng, thông số kỹ thuật, nguồn nguyên vật liệu và thực hiện các khế ước hợp đồng. Thực tế, các doanh nghiệp nội địa khó có khả năng đáp ứng một cách toàn diện các yêu cầu này, nguyên nhân chính vẫn là năng lực sản xuất kinh doanh và uy tín của các doanh nghiệp nội địa vẫn chưa đủ mạnh.

Công nghiệp ô tô, điện tử ở mức "sơ khai"

Hiện tại, công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp xe máy được coi là thành công nhất, với việc hình thành một hệ thống các nhà cung ứng ngay trong nội địa.

Do đặc thù phát triển với quy định nội địa hoá của Chính phủ và dung lượng thị trường hạ nguồn lớn, công nghiệp hỗ trợ cho ngành xe máy đã phát triển mạnh ở Việt Nam. Do thị trường tiêu thụ tốt, doanh nghiệp lắp ráp khi đầu tư vào Việt Nam đã kêu gọi được nhiều các nhà cung ứng đầu tư theo.

Tuy nhiên, đến nay, khả năng chế tạo các linh kiện và phụ tùng lắp ráp trên ô tô ở trong nước còn rất hạn chế, đa phần là các bộ phận có giá trị thấp. Tỷ lệ nội địa hoá trong sản xuất và lắp ráp ô tô đạt thấp và khó có khả năng tăng cao do nhu cầu sử dụng tại thị trường nội địa nhỏ không tương xứng quy mô công suất kinh tế.

Trong khi đó, công nghiệp hỗ trợ phục vụ ngành điện tử ở Việt Nam vẫn còn ở mức độ sơ khai ở cả quy mô, trình độ phát triển công nghệ, năng lực quản lý và kỹ năng lao động.

FDI chiếm vị trí quan trọng trong phát triển công nghiệp hỗ trợ

Theo đánh giá của Cục Đầu tư nước ngoài, việc phát triển công nghiệp hỗ trợ để tăng tỉ lệ nội địa hoá sản phẩm và thu hút đầu tư nước ngoài chỉ thực sự bức thiết trong ba năm gần đây do tác động mạnh mẽ của quá trình hội nhập. Trước sức ép mạnh mẽ của các cam kết WTO, việc phát triển công nghiệp hỗ trợ để tăng tỉ lệ nội địa hoá sản phẩm, hạ giá thành, cải thiện khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước trở nên rất cấp bách.

Không những vậy, từ khi Việt Nam gia nhập WTO một làn sóng đầu tư nước ngoài mới đã tràn vào Việt Nam, trong đó có nhiều nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào ngành điện tử, điển hình là dự án đóng gói và đo kiểm CHIP của hãng Intel (Mỹ) 1 tỉ USD, dự án sản xuất sản phẩm điện tử công nghệ cao của hãng Foxconn (Đài Loan) 5 tỉ USD. Ngoài ra còn có một số nhà đầu tư nước ngoài khác muốn chuyển cơ cở sản xuất của họ từ một số nước trong khu vực về Việt Nam.

"Đây là cơ hội thuận lợi để phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam, vì để thực hiện một dự án lớn các nhà đầu tư nước ngoài cần hàng chục, thậm chí hàng trăm nhà cung cấp sản phẩm và dịch vụ công nghiệp hỗ trợ", Cục đánh giá.

Cục Đầu tư nước ngoài cho rằng, đầu tư nước ngoài trong công nghiệp hỗ trợ chiếm vai trò đặc biệt quan trọng, nhất là trong giai đoạn đầu công nghiệp hóa. Tuy nhiên, việc thu hút đầu tư từ các doanh nghiệp này liên quan chặt chẽ đến quy mô sản xuất và tiêu thụ của khách hàng của họ - nhà lắp ráp ở thị trường nội địa.

Nếu quy mô sản xuất và tiêu thụ của nhà lắp ráp thấp, nhà cung ứng FDI không muốn đầu tư và công ty lắp ráp sẽ phải nhập khẩu đầu vào. Điều này làm giá thành sản xuất cao và nhà lắp ráp không muốn đầu tư vào quốc gia đó trong dài hạn.

"Là nước công nghiệp hóa đi sau, Việt Nam cần và có thể tận dụng lợi thế về thông tin của những nước đi trước để vận dụng bài học thành công, tránh vết xe đổ, nhằm tìm ra phương thức hữu hiệu trong việc tham gia chuỗi giá trị toàn cầu bằng cách thu hút FDI của các công ty đa quốc gia hàng đầu thế giới", báo cáo nhấn mạnh.

Phương Dung

Chuyên mục: Dòng chảy vốn

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *