Dòng chảy vốn 29/05/2015 08:01

Công nghiệp điện tử nhắm ngôi đầu ASEAN: Giấc mơ bong bóng

Tự biến mình thành “đảo ngọc” để các DN nước ngoài khai thác. Cái VN có được thì chưa thấy gì - Th.s Bùi Ngọc Sơn.

PV:- Thưa ông, Giám đốc Marketing của LG Electronics (Thailand) đánh giá: Công nghiệp điện tử Việt Nam nhắm ngôi vị số 1 ASEAN. Lời tiên đoán đến từ một giám đốc Thái Lan này có thể giải thích như thế nào? Nếu Việt Nam có đạt đến ngôi vị số 1 thì "ngai vàng" này có bao nhiêu phần đóng góp của Việt Nam, thưa ông?

 

Th.S Bùi Ngọc Sơn: - Tôi không hiểu Việt Nam hiện sản xuất được gì. Đã có một số dòng sản phẩm smartphone, điện thoại sản xuất ở Việt Nam nhưng DN Việt tham gia vào công đoạn nào trong cả dây truyền sản xuất ra sản phẩm này? Tôi không rõ.

 

Qua trường hợp của Samsung thì thấy DN Việt không đóng góp được gì vào thành quả xuất khẩu ngành công nghiệp điện tử đang có. Thành quả này là của các doanh nghiệp nước ngoài, Việt Nam chỉ góp mặt với tư cách là công nhân làm thuê, gia công, lắp ráp.

 

Ảnh minh họa
Ảnh minh họa

Chính phía Samsung cũng nói rõ chỉ có 5-6 doanh nghiệp Việt đủ tiêu chuẩn tham gia cung cấp linh kiện cho họ. Mà chỉ là cung cấp bao bì, vỏ nhựa, hộp xốp… thực chất là công việc của một học sinh lớp 3 cũng làm được.

 

Tôi nghe nhiều câu chuyện từ khu được gọi sản xuất công nghệ cao của Việt Nam. Đó là, sản xuất các thiết bị y tế xuất khẩu sang Nhật Bản. Sự đóng góp của công nhân Việt Nam trong mặt hàng đó chỉ là lấy một con chip đặt vào bo mạch trên cả một dây chuyền, với yêu cầu chưa cần tốt nghiệp hết lớp 5, và chỉ cần 3 đến 5 ngày để làm quen với dây chuyền sản xuất.

 

Không riêng các doanh nghiệp Nhật Bản, hầu hết các doanh nghiệp nước ngoài khác cũng vậy. Thực chất, đây là cuộc chiến của người nắm công nghệ với nhà thu hút đầu tư. Bên nắm công nghệ không muốn chuyển giao công nghệ, không để lộ sự liên kết trong sản xuất, dẫn tới tình trạng công nhân làm 10 năm không biết công đoạn được thuê nằm trong dây chuyền sản xuất sản phẩm gì.

 

Cuối cùng, 10 năm làm công nhân công nghệ cao cũng chỉ là công nhân nhặt chip đặt lên dây chuyền mà không thể làm được gì khá hơn.

 

Trước đây còn có chủ trương thành lập khu công nghiệp cao ở Láng Hòa Lạc, ưu tiên những ngành công nghiệp sạch trong đó có cả lĩnh vực điện tử. Cuối cùng cũng chỉ lắp ráp, đóng bao bì, gia công vặt.

 

Đến nay đã 20 năm, ngành công nghiệp điện tử, ô tô...vẫn không thể phát triển được gì. Ngay cả dệt may, được coi là ngành xuất khẩu chủ lực của VN tới nay cũng hoàn toàn phụ thuộc vào TQ. Từ thiết bị, máy móc tới nguyên vật liệu, không sản xuất được, 90% nhập khẩu từ TQ. Thật lạ lùng. Những thứ đơn giản như vậy không làm được, làm sao mơ cái khó hơn.?

 

Đáng quan ngại, khi chúng ta còn lấy tỉ lệ xuất khẩu để làm con số thể hiện niềm tự hào. Thống kê đã cho thấy, các doanh nghiệp FDI vào Việt Nam đang nắm giữ trên 80% thị trường trong nước và trên 90% kim ngạch xuất khẩu.

 

Tức là Việt Nam đã tự biến mình thành “đảo ngọc” cho các DN nước ngoài khai thác, còn cái Việt Nam có được từ các doanh nghiệp nước ngoài mang lại đang rất mù mờ, chưa thấy gì.

 

Tôi nghĩ rằng, lời khen của ai, đến từ ai trong bối cảnh công nghiệp phụ trợ không phát triển được gì, lời khen này cũng chỉ mang tính xã giao.

 

PV:- Không thể phủ nhận thành tích xuất khẩu sản phẩm điện tử của Việt Nam trong mấy năm gần đây, tuy nhiên, với những chính sách ưu đãi FDI và sự vắng bóng gần như hoàn toàn của doanh nghiệp Việt trong công nghiệp phụ trợ, phần Việt Nam có được từ thành tích này là gì?

 

Th.s Bùi Ngọc Sơn:- Không phải bàn cãi nhiều, cái Việt Nam có được ở khâu đóng gói bao bì, gia công thì lợi nhuận kiếm được là bao nhiêu?. Sẽ là rất nhỏ.

 

Những doanh FDI khi đầu tư vào Việt Nam chỉ tuyển dụng lao động phổ thông, trình độ thấp. DN Việt nếu được tham gia cũng chỉ được tham gia ở công đoạn thấp, không có môi trường công nghệ cao, lao động không có trình độ, chuyên môn, kỹ thuật… việc này đe dọa tới tính ổn định, bền vững của nhà đầu tư.

 

Tôi lấy ví dụ, nếu một doanh nghiệp FDI quyết định đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất tại Việt Nam như Samsung hay Nokia, Canon… Nếu DN Việt tham gia được vào các chuỗi sản xuất công nghệ cao của họ để cung cấp linh kiện, thiết bị hoặc cung ứng cho họ các sản phẩm bán thành phẩm phục vụ cho dây chuyền sản xuất của họ, nghĩa là đã tạo ra những chân rết giữ chặt doanh nghiệp nước ngoài.

 

Trong trường hợp, DN Việt Nam chỉ tham gia đóng gói, sản xuất bao bì. Công đoạn ai cũng làm được, không có cũng không sao, sẽ rất khó giữ chân nhà đầu tư.

 

Một số doanh nghiệp Nhật Bản cân nhắc chuyển từ VN sang Thái Lan là minh chứng. Ở đây tôi muốn nói là chính sách thu hút, phát triển không bền vững.

 

PV:- Có nên coi việc giải quyết việc làm là thành tích hay không khi lao động Việt Nam không nhận được việc lương cao, chủ yếu là gia công (môi trường làm việc trong ngành điện tử được đánh giá là độc hại hơn)?

 

Th.s Bùi Ngọc Sơn: - Theo tôi, không nên coi việc giải quyết việc làm là thành tích đáng tự hào. Nó cũng giống người cửu vạn, đói quá không có gì ăn, việc gì đến cũng phải làm.

 

Nhưng làm gì, có bền vững hay không thì không ai quan tâm. Nguyên nhân là do tư duy ngắn, tầm nhìn hạn hẹp nên mới đặt mục tiêu dừng ở “có việc là tốt”.

PV:- Thực chất, vấn đề công nghiệp phụ trợ đã được bàn luận nhiều trong thời gian gần đây, từ cấp doanh nghiệp cho tới cấp quản lý vĩ mô. Ông có kỳ vọng có sự một sự đột phá để doanh nghiệp Việt nhận được việc cung cấp linh kiện cho các DN nước ngoài hay không? Ông lường trước khó khăn của sự chuyển mình này sẽ thế nào, khi mà các doanh nghiệp nước ngoài đã tính toán sản xuất hàng phụ trợ tại Việt Nam?

 

Th.s Bùi Ngọc Sơn: - Tôi chưa nhìn thấy được một triển vọng nào trong phát triển công nghiệp hỗ trợ. Cho tới giờ, chưa thấy một chính sách nào hướng tới những vấn đề cụ thể. Chưa có chiến lược bài bản.

 

Chính sách hiện nay mới chỉ ưu tiên hướng tới con số xuất khẩu. Xuất khẩu được tiền và tiếng. Nếu không thay đổi, DN Việt không có cơ hội mơ tưởng có thể tham gia được cung cấp linh kiện cho các doanh nghiệp nước ngoài.

 

Vì sao tôi nói vậy? Thứ nhất, chưa nói chuyện DN Việt có đáp ứng được hay không, bản thân các doanh nghiệp nước ngoài vốn không muốn DN Việt được tham gia.

 

Thứ hai, có cởi mở hơn cũng chỉ mang tâm lý “nhường tí việc cho chủ nhà”. Miếng mồi phải nhả nếu không phải “xương ống thì cũng là xương cục”.

 

PV:- Từ trước đến nay, chúng ta nhận được rất nhiều cái nhất và kỳ vọng nhất (xuất khẩu gạo đứng đầu) nhưng thực tế thì doanh nghiệp Việt đã và đang phá sản hàng loạt, dù sức ép WTO chưa ở mức gay gắt nhất. Thực tế này đang nói lên điều gì? Nếu chúng ta chưa nhìn thẳng vào những mảng màu thật của bức tranh kinh tế Việt Nam thì cơ hội để đối diện và vượt qua được những khó khăn sắp tới sẽ như thế nào, thưa ông?

 

Th.s Bùi Ngọc Sơn: - Tôi cho rằng, khi các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam họ đều bỏ công nghiên cứu tâm lý nước chủ nhà rất kỹ. Tâm lý chung ai cũng muốn mình nhất, có nhiều cái nhất nhưng cuối cùng cũng chẳng có cái gì. Chẳng là cái gì.

 

Khi quá ảo tưởng người ta chỉ thích nhìn nghiêng và không muốn nhìn thẳng. Nghĩa là, đối diện thẳng với khó khăn không phải là điều dễ dàng. Không thể đối diện với khó khăn chắc chắn sẽ khó vượt qua được.  

PV:- Xin cảm ơn ông!

 

Ông Nguyễn Quốc Anh, Chủ tịch Hội Cao su-Nhựa TPHCM: Vượt qua cửa ải chất lượng của các DN nước ngoài là rất khó. Giá cả khó gấp bội. Quản trị thì quá cao nên các DN Việt chưa quen với hệ thống quản trị tiên tiến, khi tham gia chuỗi cung ứng, đều không vượt qua được các đoàn kiểm tra của nơi mua hàng.

Ngoài ra khi các nhà đầu tư đến VN, để đảm bảo thành công, họ đã phải có một hệ thống cung cấp hoàn chỉnh, chứ không đi dạo dạo xem ai được thì mua. Tốt nhất là các doanh nghiệp VN làm nhà cung ứng cấp 2 cho các doanh nghiệp lắp ráp, khi đủ cứng cáp mới nói chuyện sản xuất sản phẩm hỗ trợ (OEM).

Theo Vũ Lan

Đất Việt

Chuyên mục: Dòng chảy vốn

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *