Thời sự 31/10/2014 06:41

Việt Nam vay và phải trả nợ thế nào?

FICA - Bộ trưởng Tài chính cho biết, tình hình nợ công tuy nằm trong giới hạn nhưng thực sự khó khăn và mong được sự chia sẻ của đại biểu, nhân dân.

Trong phiên thảo luận tại hội trường về tình hình kinh tế xã hội 2014 và nhiệm vụ 2015, nhiều ý kiến của các đại biểu Quốc hội đề cập đến câu chuyện nợ công. Và cũng tại diễn đàn này, nhiều số liệu nợ công được người đứng đầu ngành tài chính công bố.

Bộ trưởng cho biết, tình hình nợ công tuy nằm trong giới hạn nhưng thực sự khó khăn và mong được sự chia sẻ của đại biểu, nhân dân. Bởi theo Bộ trưởng, “hơn 98% vốn vay là để phục vụ chi đầu tư phát triển, còn lại là vay vào ngân sách và chi thường xuyên”.

Trong điều kiện kinh tế tiếp tục gặp khó khăn, cơ cấu ngân sách cùng lúc phải sắp xếp, thực hiện nhiều chủ trương dẫn đến tỷ trọng chi đầu tư phát triển từ ngân sách giảm lớn so với những năm trước.

Năm 2011 nợ công bằng 50% GDP tăng 24% so với năm trước. Đến năm 2012 là 50,8%. Năm 2013 là 54,2%. Năm 2014 ước đạt 60,3% và 2015 là 64% GDP.

Dù vậy, theo khẳng định của Bộ trưởng, chúng ta vẫn đảm bảo trả đầy đủ kịp thời nợ đến hạn và không phát sinh nợ xấu. Cơ cấu các khoản nợ vay trong nước tăng cũng góp phần giảm phụ thuộc vào phần vốn vay nước ngoài và giảm rủi ro tỷ giá.

“Về sử dụng tiền vay qua tổng kết, chúng ta vay để đầu tư chiếm trên 98%, vay vào ngân sách 1,4% và chi sự nghiệp 0,4%”, Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng chi hay.

Phân tích các nguyên nhân dẫn đến nợ công “bùng phát”, Bộ trưởng cho biết, hiện, áp lực huy động vốn hàng năm vẫn rất lớn, mặc dù đã có xu hướng giảm trong những năm gần đây. Lãi suất Trái phiếu Chính phủ có xu hướng giảm nhưng việc sử dụng các khoản vay ngắn hạn cho phép đầu tư dài hạn tăng nhanh chiếm khoảng 77 - 78% trong tổng số phát hành.

Cùng với đó, nghĩa vụ trả nợ của ngân sách tăng nhanh đặc biệt là trong vài năm tới. Một số dự án vay lại nguồn vốn vay của Chính phủ không hiệu quả làm phát sinh nợ dự phòng, làm tăng chi trả nợ trực tiếp của Chính phủ.

Do cân đối khó khăn nên bố trí trả nợ dưới mức nhu cầu và phải thực hiện phát hành đảo nợ phần nợ gốc. Rất may lãi suất không tăng so với kỳ hạn trước.

Một nguyên nhân khác là do chúng ta phải tăng mức bảo lãnh cho 2 ngân hàng chính sách là Ngân hàng Đầu tư phát triển Việt Nam và Ngân hàng Chính sách xã hội để thực hiện các chương trình tín dụng chính sách, tăng mức bảo lãnh cho các dự án lớn như ngành điện, điện hạt nhân, hàng không.

Trong khi đó, thị trường vốn chưa phát triển, chỉ đáp ứng khoảng 50% nhu cầu phát hành trái phiếu Chính phủ hàng năm dẫn đến phải vay từ các nguồn vốn ngắn hạn, chi phí cao. Cơ cấu Trái phiếu Chính phủ kỳ hạn ngắn 1 – 3 năm chiếm tỷ trọng cao, năm 2011 là 62,7% đế nnăm 2012 là 75,8% là năm 2013 là 77%. Điều này làm tăng áp lực trả nợ trong ngắn hạn.

Về dự tính nợ công đến năm 2020, Bộ trưởng cho biết, yêu cầu huy động vốn trong thời gian tới của Chính phủ và các địa phương rất lớn. Cụ thể, vay của Chính phủ đảm bảo cân đối ngân sách gồm dự kiến ngân sách tiếp tục bội chi trong năm 2015 là 5% sau đó giảm dần 4% vào năm 2020

Phát hành Trái phiếu Chính phủ theo kế hoạch, dự kiến 2017 - 2020 bình quân 50 nghìn tỷ đồng/năm

Thời gian tới cân đối ngân sách cho trả nợ còn khó khăn do yêu cầu chi trả nợ tăng nhanh, cần tiếp tục thực hiện phát hành để đảo nợ một phần nợ gốc đến hạn.

Vay nước ngoài của Chính phủ chủ yếu là vay ODA, vay ưu đãi về cho các doanh nghiệp vay lại, dự kiến mức giải ngân vay vốn nước ngoài khoảng 5 - 6 tỷ USD/năm trong đó vay để cho vay lại khoảng 1,5 - 2 tỷ USD/năm.

Chính phủ tiếp tục bảo lãnh cho doanh nghiệp vay thực hiện các dự án trọng điểm với giá trị bảo lãnh bình quân 3 - 4 tỷ USD /năm. Về phát hành Trái phiếu trong nước, mức tăng dư nợ bình quân 10%/năm với nhu cầu vay Chính phủ bảo lãnh từ 60-70 nghìn tỷ /năm.

Vay của chính quyền địa phương khoảng 30 - 45ngàn tỷ đồng/năm.

Với nhu cầu như vậy, dự báo các chỉ tiêu nợ công như sau:

2014

2015

2016

2017

2020

Nợ công/GDP

64%

64,9%

64%

60,2%

Nợ Chính phủ/GDP

48,9%

49,4%

46,6%

Nợ Chính phủ bảo lãnh/GDP

14,3%

12,8%

Nợ chính quyền địa phương

6,8%

Nghĩa vụ trả nợ bố trí từ ngân sách/thu ngân sách

16,5%

17,5%

19,5%

Đảo nợ

14,4%

12%

Nợ nước ngoài/GDP

42,6%

Nguyễn Hiền

Chuyên mục: Thời sự

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *