Tỷ giá tăng 1%: Nhìn từ nợ quốc gia và nợ doanh nghiệp

FICA - Điểm bất cập lớn nhất khi phá giá tiền đồng dường như là gánh nặng đối với các khoản nợ bằng ngoại tệ của Chính phủ và của các doanh nghiệp. Tuy nhiên, mức độ đáng lo ngại của các khoản nợ này ở mức nào?

Ngày 7/5, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố điều chỉnh tăng 1% tỷ giá bình quân liên ngân hàng từ 21.458 VND/USD lên 21.673 VND/USD. Theo quy định biên độ tỷ giá +/- 1%, tỷ giá trần sẽ là 21.890 VND/USD và tỷ giá sàn là 21.456 VND/USD.

Đây là lần điều chỉnh thứ hai trong năm nay. Lần điều chỉnh trước vào ngày 7/1. Tính đến hôm nay, NHNN đã sử dụng hết cam kết cho biến động tỷ giá trong năm 2015. Theo CTCK Ngân hàng Việt Nam Thịnh Vượng (VPBS), với tình hình kinh tế vĩ mô hiện tại, có lẽ tỷ giá sẽ tăng khoảng 3-4% trong năm nay. Vì vậy, VPBS đang xem xét liệu với tình hình hiện tại, cùng với việc đồng USD tăng giá đối với các đồng tiền khác, có khiến NHNN tăng thêm tỷ giá không và tác động của vấn đề này như thế nào.

Sau đợt nghỉ lễ, tỷ giá trên cả thị trường chính thức và tự do đều tăng cao áp sát mức trần quy định. Áp lực tỷ giá tăng đến từ nhiều yếu tố, bao gồm việc Tổng cục Hải quan ghi nhận mức thâm hụt thương mại lên 3,1 tỷ USD tính đến giữa tháng 4/2015 so với mức xuất siêu hơn 600 triệu USD cùng kỳ năm ngoái.  Bên cạnh đó, đồng USD tăng mạnh so với các đồng tiền mạnh khác như Yên Nhật hay Euro, tuy nhiên trước khi điều chỉnh tỷ giá, VND chỉ giảm giá nhẹ so với USD. Vì vậy, VND trở nên mạnh hơn so với JPY và EUR.

Một nguyên nhân khác theo VPBS là thông tin việc Ngân hàng Vietcombank sẽ đầu tư 1 tỷ USD trái phiếu tại thị trường nội địa. Đồng thời, khả năng Chính phủ Việt Nam sẽ phải vay mượn dự trữ ngoại hối khiến thị trường lo ngại hệ thống ngân hàng sẽ phải tăng cường mua ngoại tệ từ thị trường.

Nợ trái phiếu quốc tế của Chính phủ

Theo nhận định của VPBS, tăng tỷ giá VND sẽ tăng tính cạnh tranh hoạt động sản xuất của các doanh nghiệp nội địa đối với những doanh nghiệp sử dụng nguyên vật liệu trong nước để sản xuất thay vì nhập khẩu từ nước ngoài.

Việc điều chỉnh tỷ giá cũng sẽ làm xuất khẩu hấp dẫn hơn và giảm nhu cầu nhập khẩu, giúp hỗ trợ tăng trưởng GDP và cán cân thương mại. Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong nước, bao gồm cả các doanh nghiệp xuất khẩu được cải thiện sẽ làm tăng ngân sách nhà nước thông qua nguồn thu thuế thu nhập doanh nghiệp tăng cũng như thuế từ hoạt động xuất khẩu dầu thô khi quy đổi về nội tệ.

Điểm bất cập lớn nhất khi phá giá tiền đồng dường như là gánh nặng đối với các khoản nợ bằng ngoại tệ. Trong số các khoản nợ bằng USD, tổng lượng trái phiếu quốc tế Chính phủ đã phát hành cụ thể như sau. Ngày 27/10/2005, phát hành 750 triệu USD trái phiếu quốc tế lãi suất 6,875% và sẽ đáo hạn vào 15/1/2016. Ngày 25/1/2010 phát hành thêm 1 tỷ USD trái phiếu quốc tế, lãi suất 6,755% sẽ đáo hạn ngày 29/1/2020. Gần đây là hoạt động phát hành 1 tỷ USD trái phiếu quốc tế ngày 7/11/2014 lãi suất 4,8%, đáo hạn vào 19/11/2024.

Doanh nghiệp phát hành trái phiếu quốc tế

Ngoài ra, với các doanh nghiệp có khoản nợ bằng USD thì đây cũng không phải là tin vui. Theo đó, một số doanh nghiệp niêm yết đã phát hành trái phiếu ngoại tệ như Tập đoàn Vingroup (VIC), Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai (HAG) và Ngân hàng VietinBank (CTG) cũng sẽ bị ảnh hưởng.

Cụ thể, rủi ro về thay đổi tỷ giá ngoại tệ của VIC chủ yếu liên quan đến các hoạt động như tiền gửi, huy động vốn vay, và hoạt động kinh doanh thường xuyên khác bằng ngoại tệ. Trong quá khứ, tỷ giá VND/USD tăng 1% thì làm giảm 145 tỷ đồng (tương đương 1,5%) lợi nhuận trước thuế trong năm 2013 và giảm 111 tỷ đồng (tương đương 2%) năm 2014. Hiện nay, tập đoàn chưa sử dụng các công cụ phái sinh đảm bảo để phòng ngừa các rủi ro về ngoại hối, nhưng đang xem xét thực hiện trong năm nay.

Tính đến ngày 31/12/2014, các khoản nợ vay và trái phiếu bằng USD của VIC chiếm khoảng 34% tổng dư nợ; trong đó khoản trái phiếu chuyển đổi quốc tế đã giảm từ 163,2 triệu USD xuống còn 155,3 triệu USD tại ngày 24/4/2015.

Ngoài ra, đại diện VIC còn cho biết nguồn thu từ USD chiếm khoảng 4-5% tổng doanh thu toàn tập đoàn.

Đối với Tập đoàn Hoàng Anh Gia Lai, tại ngày 31/12/2014, dư nợ các khoản vay bằng USD của HAG chiếm khoảng 26%. Trong cơ cấu các khoản vay bằng USD, tất cả các khoản vay dài hạn đều là vay từ các ngân hàng thương mại. Tại ngày 31/12/2014, HAG không có khoản dư nợ trái phiếu bằng USD nào.

Các khoản vay đều bằng nội tệ, bao gồm cả khoản trái phiếu quốc tế có giá trị 2.230 tỷ đồng. Các khoản vay bằng USD đều để đầu tư nước ngoài như là các dự án bất động sản tại Myanmar; đầu tư vào cao su và dầu cọ tại Lào và Campuchia. Những khoản đầu tư này đều tạo ra doanh thu bằng ngoại tệ để chi trả cho các khoản vay đó. Vì vậy, nhìn chung, phá giá VND sẽ không ảnh hưởng nhiều đến HAG.

Tuy nhiên, yếu tố thời điểm cũng có thể được cân nhắc vào lúc này. Trong ngắn hạn, dòng tiền từ các dự án nước ngoài sẽ không mạnh do những dự án này vẫn còn đang trong giai đoạn sơ khai, vì vậy phá giá tiền đồng sẽ tác động tiêu cực đến công ty. Song, trong dài hạn, dòng tiền sẽ mạnh hơn và đủ chi trả cho các khoản vay bằng USD. VPBS đánh giá, trong nửa cuối năm, tình hình sẽ khả quan hơn khi HAG ghi nhận doanh thu từ các dự án bất động sản tại Myanmar.

Ngân hàng VietinBank (CTG) phát hành 250 triệu USD trái phiếu kỳ hạn 5 năm vào tháng 5/2012, đáo hạn vào tháng 5/2017. Lợi suất coupon cố định là 8%, trả lãi 2 lần/năm. Vào thời điểm phát hành, lợi suất trái phiếu là 8,25%. Tuy nhiên, VPBS cho rằng, VND giảm giá sẽ không ảnh hưởng nhiều đến CTG do ngân hàng này có lượng USD khá cân bằng giữa tài sản và các khoản nợ. Giá trị của khoản trái phiếu ngoại tệ nói trên tương đối nhỏ so với quy mô của ngân hàng.

Doanh nghiệp vận tải

Đối với các doanh nghiệp vận tải, tăng tỷ giá 1% ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận ròng của họ ở mục nợ ròng. Chẳng hạn, Tổng công ty CP Vận tải Dầu khí (PVT) có khoản vay hơn 121 triệu USD tại ngày 31/12/2014. Theo ban quản trị, tỷ giá VND/USD tăng sẽ làm công ty ghi nhận khoản lỗ chưa thực hiện 25 tỷ đồng.

Theo ước tính của VPBS, nếu NHNN tăng tỷ giá 3% trong năm 2015 (nghĩa là sẽ tăng thêm 1% nữa), PVT sẽ ghi nhận khoản lỗ ngoại tệ chưa thực hiện khoảng 70 tỷ đồng.

Tại Công ty Gemadept (GMD), vào cuối năm 2014, GMD có khoản nợ ròng bằng ngoại tệ khoảng 46,7 triệu USD. Lợi nhuận ròng của công ty sẽ giảm khoảng 15 tỷ đồng tính đến thời điểm hiện tại, khi NHNN mới chỉ tăng tỷ giá 2%.

Doanh nghiệp nhập nguyên vật liệu thô

Với các doanh nghiệp nhập khẩu nguyên vật liệu thô trả USD, theo VPBS, việc giảm giá của VND có thể tác động đến các doanh nghiệp khác khi cần phải nhập khẩu nguyên vật liệu ở mức giá cao hơn.

Ngành công nghiệp dược phẩm được biết đến là ngành chủ yếu nhập khẩu nguyên vật liệu đầu vào và phục vụ thị trường trong nước. Trong đó kể đến các mã như Dược Hậu Giang (DHG), Domesco (DMC) và Traphaco (TRA). VND giảm giá thêm 1% không đủ sức để tác động tiêu cực đến các công ty này. Nhưng nếu VND bị giảm giá nhiều hơn có thể tác động đến biên lợi nhuận nhưng những tác động này chỉ có thể được nhận thấy tại thời điểm năm 2016 do các công ty này thường mua trước nguyên liệu từ 6 đến 12 tháng.

Doanh nghiệp thép

Các công ty sản xuất thép cũng chịu ảnh hưởng một phần từ việc phá giá do họ cần USD để nhập khẩu nguyên liệu nhưng không có nhiều nguồn thu ngoại tệ tương ứng vì hầu hết các sản phẩm thép phục vụ cho thị trường nội địa. Trong khi đó, các công ty cũng có các khoản nợ vay ngắn hạn bằng USD. Như trường hợp của Tập đoàn Hoa Sen (HSG), công ty có nguồn doanh thu đáng kể từ hoạt động xuất khẩu để giảm thiểu rủi ro giá nguyên liệu tăng do biến động tỷ giá, nhưng HSG chủ yếu xuất khẩu sang các nước ASEAN không phải Mỹ. Các khách hàng ở thị trường nước ngoài của HSG có thể nhạy cảm hơn khi USD mạnh lên. Bên cạnh đó, dư nợ bằng USD chiếm khoảng 75% tổng nợ vay, và phần lớn là nợ vay ngắn hạn.

Tương tự, Tập đoàn Hòa Phát (HPG) có tỷ trọng nợ vay ngắn hạn bằng USD là 65%, và phần lớn cũng là nợ vay ngắn hạn. Tỷ trọng doanh thu xuất khẩu của HPG thấp và họ cũng không có nguồn thu bằng USD lớn. Trong năm 2014, công ty chỉ xuất khẩu khoảng 100.000 tấn phôi thép, chủ yếu sang Philippines. Tuy nhiên, nhờ vào quy trình sản xuất khép kín, HPG chỉ cần nhập khẩu quặng sắt. Quặng sắt chiếm khoảng 30% giá thành sản xuất và HPG hiện chỉ nhập khoảng 30% nhu cầu quặng.

Doanh nghiệp có doanh thu xuất khẩu nhận USD

Với các doanh nghiệp có doanh thu xuất khẩu nhận USD, VPBS cho rằng, các công ty cao su thiên nhiên sẽ được hưởng lợi trực tiếp từ việc phá giá đồng Việt Nam. Xuất khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu doanh thu của những công ty này trong khi hầu hết chi phí sản xuất được cung cấp trong nước. Bên cạnh đó, dư nợ vay của những công ty này đặc biệt dư nợ bằng USD là nhỏ, do đó việc phá giá đồng Việt Nam không ảnh hưởng đáng kể lên dư nợ vay. CTCP Cao su Tây Ninh (Mã: TRC) và CTCP Cao su Phước Hòa (Mã: PHR) là hai ví dụ điển hình trong trường hợp này.

Doanh thu xuất khẩu của TRC đóng góp 40% vào tổng doanh thu trong năm 2014 trong khi tỷ lệ này của PHR là 35%. Tại ngày 31/12/2014, toàn bộ dư nợ của TRC là bằng USD nhưng tỷ lệ nợ vay trên vốn chủ sở hữu là rất nhỏ, chỉ 3,3%. Đối với PHR, tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu của công ty tại thời điểm 31/12/2014 là 33% và hầu hết dư nợ là bằng tiền đồng.

Ngoài ra, có thể thấy các doanh nghiệp dệt may và thủy sản sẽ được hưởng lợi do doanh thu xuất khẩu nhận USD sẽ tăng khi đổi về VND. Tuy nhiên, VPBS cho rằng tác động tăng tỷ giá sẽ không đáng kể vì: Bù trừ doanh thu xuất khẩu: các doanh nghiệp có nguồn doanh thu lớn từ các thị trường thanh toán bằng USD như TCM (58% doanh thu xuất khẩu đến Mỹ) hoặc công ty dệt may TNG (47% doanh thu xuất khẩu đến Mỹ) thì các doanh nghiệp này sẽ hưởng lợi khi VND phá giá. Tuy nhiên đối với các thị trường khác như châu Âu, Trung Quốc, Nhật, mặc dù các hợp đồng có thể thu về bằng USD nhưng do đồng tiền tại các nước này yếu đi, dẫn đến việc nhu cầu nhập khẩu sản phẩm Việt Nam giảm xuống. Nói cách khác sản lượng nhập khẩu từ các thị trường này có thể bị giảm đi hoặc người mua sẽ yêu cầu giá bán rẻ hơn.

Hiện tại đầu vào của dệt may là bông hoặc sản phẩm thức ăn chăn nuôi chủ yếu vẫn là nhập khẩu. Do đó nhiều khả năng chi phí đầu vào tăng lên khi VND bị phá giá, tương ứng với mức tăng về của doanh thu.

Tính đến cuối kỳ, tác động của tỷ giá đối với nợ phải trả thuần có nguồn gốc từ ngoại tệ của một số doanh nghiệp theo báo cáo tài chính như sau: Dư nợ vay bằng USD của VHC tại 31/12/2014 là 1.669 tỷ đồng, tăng tỷ giá 1% thì lợi nhuận giảm 17 tỷ đồng. TCM có dư nợ vay là 686 tỷ đồng, tỷ giá tăng 1% thì lợi nhuận giảm 7 tỷ đồng. TNG là 282 tỷ đồng dư nợ, lợi nhuận giảm 3 tỷ đồng. HVG dư nợ vay là 455 tỷ, song sau điều chỉnh tỷ giá, lợi nhuận vẫn tăng 5 tỷ đồng. Như vậy, có thể thấy ảnh hưởng của tỷ giá không đáng kể đối với lợi nhuận của các doanh nghiệp.

Bích Diệp

Chuyên mục: Vĩ Mô

Địa chỉ email của bạn sẽ không được công bố. Các trường bắt buộc được đánh dấu *